Ngành công nghiệp chế biến gỗ đã trở thành ngành hàng xuất khẩu chủ lực xếp thứ 5 của Việt Nam chỉ đứng sau dầu thô, dệt may, giày dép và thủy sản. Cùng với đó, Việt Nam đã thành một nước xuất khẩu đồ gỗ đứng đầu Đông Nam Á. Chất lượng đồ gỗ Việt Nam luôn được cải tiến, có khả năng cạnh tranh cao với các nước trong khu vực.
Tình hình ngành chế biến gỗ tại Việt Nam hiện nay
Hiện nay, nước ta có khoảng 3.500 công ty chế biến gỗ, 340 làng nghề gỗ và lượng lớn các hộ gia đình sản xuất kinh doanh đồ gỗ. Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông Thôn thì những cơ sở chế biến gỗ thường có quy mô nhỏ.
Theo nguồn gốc vốn thì có 5% doanh nghiệp thuộc sở hữu quốc gia, 95% còn lại là thuộc khu vực bốn nhân, và có 16% có vốn đầu tứ nước ngoài (FDI).
Về lao động, ngành công nghiệp chế biến gỗ có khoảng 250.000 – 300.000 lao động. Trong đó, 10% lao động có trình độ đại học trở lên; 45-50% lao động thường xuyên được đào tạo, cuối cùng là 35-40% lao động theo mùa vụ.
Song dù có số lượng lao động lớn nhưng đa phần công nhân chưa được đào tạo bài bản, thiếu chuyên nghiệp. Sự phân công lao động không hợp lý, giảm sát, điều hành vẫn còn thiếu hiệu quả đang là những vấn đề nổi cộm hiện giờ.
Năng suất lao động trong ngành chế biến gỗ ở Việt Nam còn thấp: bằng 50% của Philippines, 40% năng suất của Trung Quốc và chỉ bằng 20% năng suất lao động của Châu Âu (EU).
Với tình trạng này, vấn đề đào tạo và bổ sung nguồn nhân công có tai nghề cao, có khả năng dùng tốt các kỹ thuật hiện đại trong sản xuất là vấn đề khác lạ quan trọng đối với ngành hàng chế biến gỗ.
Về công nghệ sản xuất, cac doanh nghiệp gỗ Việt Nam được phân theo 4 cấp độ: nhóm các công ty FDI và các doanh nghiệp to và vừa sản xuất tác phẩm xuất khẩu, nhóm các tổ chức sinh sản ván nhân tạo, nhóm những tổ chức chế biến đồ gỗ mỹ nghệ.
Nhìn phổ biến trong thời kì qua những tổ chức chế biến gỗ đã có 1 số cố gắng trong cải tiến công nghệ sử dụng trong chế biến gỗ. rộng rãi khoa học mới, hiện đại như khoa học xử lý biến tính gỗ, tạo những vật liệu composite gỗ cũng đã được đầu tứ tại Việt Nam.
Tình hình nguyên liệu ngành gỗ tại Việt Nam
Nguyên liệu của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam hiện có nhiều khó khăn, chủ yếu từ hai nguồn cơ bản: Nguồn nguyên liệu gỗ trong nước (gỗ tự nhiên và gỗ rừng trồng) và nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu. Về nguồn vật liệu gỗ trong nước thì tính từ lúc năm 2014 Chính phủ quyết định đóng cửa rừng tự nhiên, do vậy nguồn nguyên liệu gỗ nội địa chỉ còn trông mong vào gỗ rừng trồng.
Nguyên liệu gỗ rừng trồng hiện đạt khoảng 3,2 triệu ha, với trữ lượng gỗ đạt khoảng 60 triệu m3. Sản lượng gỗ rừng đạt trên 5 triệu m3/năm, sản lượng gỗ này cốt yếu là keo và khuynh diệp.
Các doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn khi xuất sang hai thị trường là Châu Âu và Hoa Kỳ đều bắt buộc phải dùng 70% vật liệu có chứng chỉ FSC, 30% còn lại là gỗ có nguồn gốc.
Từ tháng 3/2013, công ty xuất khẩu gỗ vào EU còn phải gánh thêm đạo luật FLEGT đòi hỏi những lô đồ gỗ nhập vào EU phải sáng tỏ, rõ ràng về cỗi nguồn gỗ vật liệu mới cho nhập khẩu.
Bên cạnh đó, nguồn gỗ trong nước không đáp ứng với nhu cầu sản xuất đồ gỗ xuất khẩu và cũng chưa có chứng chỉ FSC.
Hiện nay, trên địa bàn cả nước thế hệ có khoảng 20.000 ha rừng được cấp chứng chỉ, trong đó có 9.900 ha là vùng vật liệu để đáp ứng nhà máy giấy của Nhật tại Quy Nhơn, trên 10 nghìn ha là nguyên liệu của công ty giấy Bãi Bằng.
Nguồn nguyên liệu gỗ của Việt Nam bị tác động đáng kể từ gỗ nhập khẩu. Lượng gỗ nhập khẩu khá to chiếm 30-50%. Kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu bằng 30% kim ngạch xuất khẩu công trình gỗ.
Về thị trường nhập khẩu, Việt Nam đang nhập khẩu từ trên 100 nhà nước và vùng lãnh thổ. Nguyên liệu gỗ được nhập cảng từ Lào và Campuchia nhưng nguồn cung này đang hết sạch.
diễn ra từ năm 2005 đến nay, Malaysia và Indonesia đã đóng cửa mặt hàng gỗ bổ, gây phổ thông gian truân cho các tổ chức vừa và bé. Giá gỗ bình quân từ 5% – 7%, đặc biệt là gỗ cứng đã tăng từ 30% – 40%, khiến cho phổ biến tổ chức Việt Nam rơi vào trạng thái khó khăn.
Những nguồn lâm sản ngoài gỗ như tre, mía, song, mây, keo… rất phong phú. Bên cạnh đó, để phục vụ cho lĩnh vực công nghiệp chế biến gỗ chỉ có có tre nứa và song mây là hai nguồn vật liệu căn bản. Khác với nguồn vật liệu gỗ khả năng nhập khẩu, nguồn nguyên liệu tre nứa, song mây đáp ứng sinh sản hầu hết được phục vụ từ trong nước.
Nước ta hiện nay có khoảng 1,4 triệu ha tre, tương đương 6,2 tỷ cây. Trong đấy, khoảng 6% kích thước rừng trồng, còn lại là rừng tự nhiên. Cả nước có 37 tỉnh có rừng tre. Những loài tre có trị giá thương mại cao là luồng, trúc và tầm vông. Cả nước có khoảng 30.000ha mây, phân bố ở 28 tỉnh trên cả nước và hầu hết là mây thiên nhiên, chiều dài, chiều rộng, chiều cao mây trồng rất ít.
Hiệp hội Gỗ và lâm sản cho rằng Chính phủ cần điều chỉnh cơ cấu rừng trồng cho phù hợp, ổn định khoảng 3,8 triệu ha rừng trồng sản xuất vào năm 2020, tăng chất lượng rừng để đạt sản lượng gỗ thương phẩm bằng 80% trữ lượng, trong ấy có 40% là gỗ béo. thiết kế các vùng vật liệu gỗ tụ hợp ở vùng Đông Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ để hỗ trợ nguyên liệu gỗ bé cho những khu vực sắp nhà máy và cung cấp vật liệu gỗ bự cho lĩnh vực công nghiệp chế biến gỗ tại địa phương và khu vực phụ cận.
Cũng cần đầu tư biện pháp kỹ thuật để nghiên cứu, tuyển chọn các giống cây cho năng suất cao, chất lượng rẻ, có đặc tính phù hợp với sinh sản công nghiệp, đáp ứng nhu cầu dùng nguyên liệu trong nước và xuất khẩu.
Nghề gỗ thường xuyên chia sẻ kiến thức về lĩnh vực nội thất, thiết kế và nghề mộc nên bạn hãy ghé thăm website làm nghề mộc thường xuyên để tìm đọc thêm các tin tức mới nhất, hoặc chia sẻ kinh nghiệm của mình về nghề gỗ nhé!